SỬ LIỆU VỀ NGUYỄN HUỆ VÀ
NGUYỄN ÁNH
Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều.
Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị, kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm
bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn. Trong khi đó, lịch sử lại chỉ có thể xảy
ra duy nhất một lần.
Phần còn lại của lịch sử được viết đi, viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và
tuy theo mỗi thời kỳ.
Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm, người này
người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn
Ánh Gia Long. Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền thoại hóa, được vinh
danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các
người viết sử.
Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử
của những người viết sử? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả
thực không dễ. Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu, đóng mốc
đến mọc rễ trên họ. Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức
mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên,.
Đó là hai công việc đồng thời phải làm. Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong
sách vở, xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả, xóa bỏ thần tượng
trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não.Và nhiệm
vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người
đời rồi cứ thế trôi theo. Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật
và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả
lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu
chuyên ngành về sử.Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến
thức sử của các vị chuyên ngành viết sử.
1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn
Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về
Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh. Số lượng
chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì? Phải chăng những người viết sử chạy
theo số đông như về hùa? Hay viết với nhiều cảm tính?
Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế?
Hiểu được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật. Chẳng hạn
cộng sản Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn.
Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 thì do động cơ nào?
Tay Son Soldier
Nguồn: William Alexander
(1767–1816)
Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một
cách chính thức như Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam Thực lục tiền biên
và chính biên viết theo lối biên niên. Đây là số lượng tài liệu đồ sộ, nhưng lại
không dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ
Hán ra Việt cũng không mấy người có để đọc. Người viết đọc các tập tài liệu
này, măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà, quá chi ly từng
sự việc, nhưng rõ nét tính chính thống. Không thể phủ nhận tinh thần công tâm,
nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn.
Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá.Ngoài thứ chính sử đó ra
thì hầu như không có mấy ai “ở ngoài luồng” sau này để công sức viết đến nơi đến
chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long. 25 năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao.
Ông vào sinh ra tử. Và gần 100 năm dòng họ ngồi ở ngôi báu. Biết bao điều để phải
nói, phải viết. Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc
nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta?
Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến. Liệu
Tây Sơn đã thực sự làm được gì? Vậy mà người ta có thể ngồi “vẽ ra” nào là về
chính tri, ngoại giao, chính sách về tôn giáo, tiền tệ, v.v… và v.v…và ngay cả
văn học thời Tây Sơn nữa.
Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà
số người đọc được đếm trên đầu ngón tay! Vì những sách này lại rất khó đến tay
người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán.Cho nên đối với phần đông
dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc
sử. Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử. Đây là điều
bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian,
truyền miệng. Làm thế nào bịt miệng dân gian?
Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch
Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh
là điều có thực. Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim, một sử gia Việt
Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới
về vua Quang Trung. Nó đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với
nhiều hào quang, với nhiều danh xưng tán tụng như “anh hùng áo vải, anh hùng
dân tộc dựng cờ đào, v.v… Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử
học viết về Tây Sơn.
Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó, đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi
dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của
đời sống.Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người,
khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ. Nhưng liệu nó
có thể thay thế cho sự trung thực của sử học?Duyên Anh đã có lần viết mơ được
làm Người Quang Trung.Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành. Cạnh đó,
thơ văn, kịch nghê, sân khấu, tiểu thuyết, sách giáo khoa, tên các địa danh,
ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “người anh hùng áo vải”.Phải chăng
có một thứ sử học, văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc, đất
nước, con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người
anh hùng?Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về
Quang Trung. Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng
rãi là cuốn của Hoa Bằng: Quang Trung, Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc 1788-1792,
Sàigòn,1958.Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của
Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người Nguyễn Phương với cuốn Việt
Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Sài Gòn, Khai Trí, 1967 Người ta có thể đồng ý với
nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều. Nhưng phải chăng viết giống
nhau cũng nhiều.Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có
phần trổi bậtkhông?Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế. Nó
chẳng khác gì khi có phong trào “thời thượng triết hiện sinh” sau này.Phải
chăng có một phong trào, một sùng bái Tây Sơn?
Ở miền Nam, tập san Sử Địa là “ấn tượng và biểu tượng” nhất của phong trào này
cũng đã trôi theo một dòng chảy “thời thượng” Tây Sơn. Trong đó Tập san Sử Địa
đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn. Ý hướng thiện chí thì có. Nhưng nay đọc lại
thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “định sẵn”, phần biện
luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử.
Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và
có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu. Càng thiếu tài liệu
thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu.Đã thế, cách viết, cách chọn tài
liệu, nhất là phong cách, ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một
số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn. Đó là lối viết sử viết
một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù
viết rất cảm tình, rất thiên lệch, phong cách viết, ngôn ngữ xử dụng đọc thấy
“tự cao” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực.
Tôi muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự
Chiêu, Nguyên Vũ. Đây là cái bệnh “ngụy tín” mà J.P. Sartre đã vạch trần trong
những luận cứ triết học của ông.Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy, hầu
như không có mấy bài chú trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long. Cũng ít
chú trọng đến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của
các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ. Những tài liệu này
ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe
phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra.
Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai
tài liệu: “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Sử Địa số
9-10, 1968, tr94-243 và “Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo
Tây Phương”, Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180.
Tài liệu đã hiếm hoi. Nhưng có một số tài liệu “đầu tay” cùng thời với sự kiện
lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng. Riêng người viết bài này thì ngược
lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài liệu này. Vậy mà phần
đông người viết sử miền Nam hình như tránh né, ít xử dụng các loại sử liệu của
các thừa sai Pháp. Phải chăng vì nó trình bày những “bất lợi”cho Tây Sơn. Xem
ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này? Phải chăng vì nội dung của
chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc, hay nội dung đụng chạm đến thần
tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ?
Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “lời đồn”
hay “nghe kể”. Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử.
Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “tiếm
vương” Quang Trung.Nhưng, theo người viết, chính vì họ không có ý định viết sử,
mà điều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được.Vì thế, đấy
vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn, trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng
sử. Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất. Cùng lắm, ta dùng chúng với
sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào.
Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh
ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều
giới hạn tài liệu.
• Chủ đề thứ nhất: Đặc Khảo về Quang Trung. Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ
Chí Đại Trường như: Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn
– Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn v.v… Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài: Việt Thanh
chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh. Tạ Quang Phát với
bài: Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn. Nhưng một tài liệu không thể bỏ
qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm
các thư: Lettres Édifiantes et Curieuse của Gia Tô Hội.
• Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau, tháng1-3, năm 1969 để kỷ niệm: Kỷ
niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, Đống Đa. Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài:
Đống Đa, mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới. Hoàng Xuân Hãn với Bắc Hành Tùng Kí.
Nguyễn Nhã với: Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Đăng Phương Nghi dịch: Triều đại
Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương.
• Chủ đề thứ ba số tháng 1-3, 1971: 200 năm Phong Trào Tây Sơn với các bài của
Hoàng Xuân Hãn: Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân”. Việc mất
đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại. Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo
sĩ Phương Tây, bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư (tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng
Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne).
Trong cả ba số chủ đề trên, sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi
bật. Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách
nhìn mới, tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả.
Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi
trong khu rừng rậm.
Phía các người viết sử miền Bắc
Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “đi trước” các nhà viết sử trong Nam. Họ
gán cho Tây Sơn những vai trò “cách mạng” đi trước cả Mác-Lênin. Và phải chăng
Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng XHCN? Người ta đọc được các bài viết sau
đây về Tây Sơn, Nguyễn Huệ:
Tem Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà
Nguồn: OntheNet
- Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
- Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
- Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
- Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc
đã ở Việt Nam đương thời.
- Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
- Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung
Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử
quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu
miền Bắc có một số trí thức đáng nể. Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào
lối viết theo “lề phải” như Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Trần
Thanh Mại, Trần Văn Giàu, Vũ Ngọc Phan, Trần Đức Thảo.
Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử. Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết,
viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích
tuyên truyền.
Họ càng “tụng” Tây Sơn, Tây Sơn càng không phải Tây Sơn.Sự ca tụng Tây Sơn có
khác gì bây giờ họ đang “đánh bóng” Lý Công Uẩn?Với những dụng ý như thế, Tây
Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật.
Sau 1975, Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn, xnb Trẻ, TP. HCM, 2000.Đặc
biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề: Mười ba đời nhà
Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn. Nhưng đặc
biệt ở trang 172 có ghi: Hành động cách mạng “số một” của vua Bảo Đại, trích hồi
ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính
trọng của Bảo Đại đối với “ thánh” Nguyễn Ái Quốc!
Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng
Nhưng viết về Nguyễn Ánh, khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như: “Một
vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long”, Phạm Việt Tuyền, Đại Học Huế, số 8 tháng
3/1958. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh: La Monarchie des Nguyên de la mort
de Tu Đuc à 1925. Bài viết gần đây như: Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ
Tây Sơn, số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt.
Nguyễn Phúc Ánh (1783)
Nguồn: Một người ở Siam
Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An: Bàn về Tây Sơn, Nguyễn
Ánh. Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn
Ánh.Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được. Nhưng
nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn.
Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây
Sơn trong tương lai. Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975,
chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con
người Tây Sơn cho thích hợp.
Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra
tính cách “một chiều” trong các bài khảo luận về Quang Trung. Vì thế, ông đã dịch
Việt Thanh Chiến, theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn
Long chính vũ An-Nam ký, năm Đạo Quang thứ 22-1842 nhằm cân bằng kiến thức lệnh
lạc một chiều của một số người viết. Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi
là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây
Sơn Nguyễn Huệ.Ông Hãn còn viết thêm bài: Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập
“Cử Trung Ngân”Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ
Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “theo
lề trái” về Quang Trung.
Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị
không có được là ông rành chữ Hán, tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung
Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang, Chen Ching Ho (Trần Kình Hòa).
Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn, lại không
chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang
danh nghĩa một nhà sử học?Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn
cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía. Và theo ông, cần tham khảo sử liệu từ
nhiều phía.Vì thế, viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa
sự thật.
Sau này, các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu
đó khi tìm hiểu - điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử- thông qua cuốn
Khâm Đinh An Nam Kỷ lược. Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những
thư từ, chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta.
Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính, đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của
vua Gia Khánh (1798-1820), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo, được in lại do Cố Cung
Bác Vật Viện biên tuyển, ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000.
Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu
thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử.Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều
bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch, tồn trữ đối chiếu mà không
hé mở cánh cửa vào sự thật.
Cho nên phần đông các tham luận về sử, đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ
đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu.
Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ.
Giữa con số đề nghị của Tạ Chí Đại Trường là 200.000 ngàn quân Thanh và con số
của Nguyễn Duy Chính chứa tới 20.000 người, đâu là con số giả định có thể chấp
nhân được gần đúng?
Người viết xin mượn chữ của Phạm thị Hoài phải chăng cần có kết quả của những
phép tính trừ trong việc đọc về các con số trong chiến dịch Việt-Thanh?
3. Giải trừ huyền thoại về cách đối xử tàn nhẫn của nhà Nguyễn Gia Long đối với
Quang Trung Nguyễn Huệ
Có một điều cần lưu ý bạn đọc là những tài liệu liên quan đến sự “bạo tàn” của
Nguyễn Ánh khi mới lên ngôi thì đều xuất phát từ hai nguồn tài liệu:
Thứ nhất từ các lá thư của các thừa sai Pháp trong Archives des Missions
Étrangères de Paris, Cochinchine, trong đó có các tài liệu như: Lettres
édifiantes et curieuses của Gia Tô Hội. Bộ Nouvelles lettres Édifiantes et
curieuses do Đặng Phương Nghi hoặc do Nguyễn Ngọc Cư dịch hoặc Những Lời thuật
của Barisy về Trận Thị Nại, Thư của giáo sĩ Le Labousse cũng về Trận Thị Nại hoặc
Lời thuật của Brisy về trận Phú Xuân. Cả ba tài liệu trên đều do giáo sư Hoàng
Xuân Hãn chuyển ngữ.
Thứ hai và đây là phần quan trọng nhất là các vụ trả thù Tây Sơn lại do chính
các sử gia triều Nguyễn chính thức tường thuật lại. Điều đó cho thấy thái độ
công khai hóa các trừng phạt vì họ cho rằng trừng phạt đó là xứng đáng, là xử
theo luật. Bây giờ người đọc cho là xử phạt quá tàn độc như hình phạt cho voi
giày xé là có ghi trong luật lệ hẳn hoi. Giả dụ Tây Sơn có quyền lực trong tay
mà bắt được giặc có lẽ cũng không làm khác hơn.
Về các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê
Khi dịch các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê, bà Đặng Phương Nghi cũng ghi nhận
tính cách “tế nhị” khi phải dịch những lá thư đó. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
tính cách cập nhật và tinh cách nhân chứng của các lá thư này.
Đọc các thư từ hay bài tường thuật của các thừa sai Ba Lê cho thấy những nhận
xét chi li, tỉ mỉ, tính chất người đậm nét và những biểu lộ tình cảm cũng rất
người của các lời tường thuật. Nó như chuyện kể thực, sống động và trung thực.
Điều này cũng chứng tỏ Vũ Ngự Chiêu đã bất công khi đánh giá các tài liệu này.
Các lời tường thuật có tính truyền đạt, được sự cảm thông của người đọc không
thua gì một bài phóng sự của một tay viết báo bây giờ. Đọc không thể không mủi
lòng, rơi lệ vì sự tàn bạo của con người, của kẻ thắng trận đối với kẻ bại trận.
Nhất là đối với các phụ nữ, vợ các tướng tá bại trận.
Xin được trích dẫn vài đoạn tiêu biểu.
“Sau đó, Nguyễn Vương hỏi tôi đã trông thấy các ngụy tướng chưa; thấy tôi đáp rằng
chưa, ngài cho lệnh giải họ tới. Rồi ngài bảo tôi đi xem các chị em của Tiếm
vương (Cảnh Thịnh). Tôi đã tuân lệnh. Những tù nhân này ở một ngôi nhà kín, hơi
tối, thiếu vẻ thanh nhã; trong cảnh huống của họ, có sự tương phản giữa quá khứ
và hiện tại. Tất cả có 5 người; một 16 tuổi rất đẹp, một thiếu nữ 12 tuổi, con
vương phi Đàng Ngoài, dung mạo tầm thường; còn ba người khác từ 16 đến 18 có nứỚc
da hơi sẫm, nhưng dung mạo xinh đẹp. Trong một ngục thất khác không xa, có thân
mẫu của vị thiếu phó, tướng chỉ huy đạo quân bao vây thành Quy Nhơn. Bà ta độ
55 tuổi và có nhan sắc. Trong trạng huống bất hạnh, bà tỏ ra rất cương quyết,
có vẻ trinh thục và không tự tôn. Rồi tới vợ phò mã Nguyễn Văn Trị, là chị ruột
của Tiếm Vương. Còn bà Tư-Khấu Định, vợ tướng chỉ huy pháo binh, có võ tướng;
Bà Tham-lĩnh Thông, vợ phó đô đốc hải quân và sau nữa còn rất nhiều người, muốn
nhớ hết phải ghi cả một niên giám trong ký ức.
Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch và tôi tức
giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc
chắn có những tòa nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ
được coi là những lâu đài tráng lệ, nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều
bình cho Nhật Bản.
Tóm lại, đó là chung cục việc báo thù của Nguyễn Vương và chắc hẳn ít là nỗi
oán cừu của ngài rất hời hợt”.
Về Chính sử triều Nguyễn
Nay thử đọc một số trích đoạn được ghi chép trong chính sử triều Nguyễn về các
hình phạt “dã man” dành cho kẻ chiến bại:
“Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ, Ngày
Giáp tuất hiến phù ở Thái miếu.(Hiến Phù: Dâng những người bắt được trong chiến
tranh.)
Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri
Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra
ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (Dùng 5 con voi chia buộc vào
đầu và hai tay chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của
Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất di, còn xương đầu lâu của Nhạc,
Huệ, Toản và một của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại. (Ngoại đồ gia:
Sau đổi là vũ khổ (Năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi)
Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu
cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Trích Thực Lục, trang 531.
Theo tài liệu Bissachère ghi ở trên còn đưa ra chi tiết anh em nhà Cảnh Thịnh
trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh các lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng
hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc.
Căn cứ vào sự việc được chính thức sử gia nhà Nguyễn kể lại thì quả thực cách
hành xử của Nguyễn Ánh quả là quá tàn độc đội với kẻ đã chết cũng như đối với
con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ.
Cũng vì thế, các nhà viết sử VN đều đồng loạt lên án Nguyễn Ánh, Gia Long. Từ
Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư, Hoa
Bằng trong Quang Trung, anh hùng dân tộc đến Vũ Ngự Chiêu đều cùng đồng loạt
lên án Nguyễn Ánh Gia Long.
Các sử gia Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn chê trách triều đình nhà Nguyễn hẹp
lượng. Hoa Bằng thương tiếc cho người anh hùng Quang Trung bị gán cho chữ Ngụy.
Trần Gia Phụng chê trách Nguyễn Ánh viện cớ việc trả thù chỉ là dựa trên “nghĩa
lớn trong kinh Xuân Thu” mà thực ra là trái với đạo lý cổ truyền của dân tộc.
Vũ Ngự Chiêu thì viết:
“Không ai phủ nhận được một điều: Cách đối xử của các vua nhà Nguyễn
(1802-1945) với Quang Trung Nguyễn Huệ và gia đình Tây Sơn cực kỳ tàn nhẫn.
Theo Đại Nam Thực Lục, Chính biên, từ tháng Một Tân Dậu,ngay khi tái chiếm kinh
thành Huế, Nguyễn Chủng cho lệnh phá hủy mộ Quang Trung, “bổ săng, phơi thây
bêu đầu ở chợ”. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của nhà Tây Sơn ”31
người đều bị lăng trì cắt nát thây”...Sự trả Thù còn trút xuống dòng dõi Nguyễn
Văn Nhạc dưới thời Minh Mạng (...)
(Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn (1778-1802) Nguyên Vũ, Ngàn năm soi mặt,
2002. Trích lại trong báo Đi Tới, số 84, bộ mới, trang 159.
Qua những tư liệu vừa trích dẫn trên cũng như sự đồng thuận của các người viết
sử cho thấy dư luận nói chung đều lên án cách hành xử của các vua quan nhà Nguyễn
đối với Tây Sơn- một người được coi là anh hùng dân tộc.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn lại và đánh giá lịch sử cho công bằng.
Thực sự Nguyễn Ánh có phải là người có bản tính tàn độc đối với kẻ bại trận
không?
Căn cứ vào chính sử Nhà Nguyễn cho thấy Nguyễn Ánh không phải ác độc như cái
nhìn miệt thị của các người viết sử.
“Trừ cỏ xấu, cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác, cốt để cứu giúp dân lành. Vả chăng
một phủ Quy Nhơn đều là đất đai cũ, nhân dân cũ của ta, từ thuở Tây Sơn nổi loạn,
dùng làm sào huyệt, nhân dân bị thế bắt buộc, không thể không theo (...) Vậy ra
lệnh từ nay phàm khi đối trận chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận,
không kể người ở Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, đều được
thưởng như nhau bất tất phân biệt; người từ Quảng Ngãi về Bắc thì cho lưu lại để
thu dùng, người ở Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi thả về. Đó thực là
đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy. Ta đã đinh ninh dặn bảo, nếu có ý trái lệnh
giết càn thì tức là hạng quân kiêu căng giận dữ, do lòng tàn nhẫn, đều chiếu
theo quân pháp mà trị tội.”
Trích “Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục”, tập một, trang 471-472,
nxb Giáo Dục.
Và đối với bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò cũng như con cháu họ
Trịnh, Nguyễn Ánh đều lấy lẽ phủ dụ, thấu rõ tâm tình của họ để thu phục họ. Sử
nhà Nguyễn viết:
“Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm, tùy tài bổ dụng, cho người hiền được có vị,
người tài được có chức, họp lòng nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước.
(…)
Với dòng họ Trịnh sử viết “Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia.
Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua củ người trước,
không nên nói nữa. Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mồí tình thích thuộc
bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy
cũng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trong họ giữ việc thờ cúng, để giữ
tình nghĩa đời đời “.
Trích ĐNTL, trang 507-508.
Cách ứng xử như trên, có tình có nghĩa nào phải của một kẻ tàn độc?
Riêng đối với La Sơn phu tử được coi là cố vấn cận thần của Tây Sơn, 4 lần được
Nguyễn Huệ vời ra giúp nước đã được Nguyễn Ánh đối đãi khoan hồng như Sử sách
ghi:
“Thả Xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp vê. Vua dụ rằng: “Khanh là người có tuổi
tác đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo đào tạo lấy
nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão
kính hiền của ta”. Bèn sai quan quân đưa về.
Trích ĐNTL, trang 445.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ánh, Gia Long lại có mối thâm thù và muốn
trả món nợ cừu hận ấy? Phải chăng Nguyễn Huệ cũng xử sự tàn độc khi chiến thắng?
Những việc làm “tàn độc” của Tây Sơn hầu như bị sử sách bỏ quên
Việc Nguyễn Ánh làm thì được kể lại kỹ càng. Nhưng việc của Tây Sơn làm thì
không đụng tới. Phải được hiểu như thế nào về sự việc này?
Xin đọc trích dẫn một số sự việc khi Nguyễn Huệ Bắc tiến do linh mục Thomas Thiện
viết phúc trình:
“Chừng một tháng nay, một vị tướng của tầu Attila, Nguyễn Huệ tên là Vach Quinh
đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính. và bắt dân chúng cung cấp một số gạo lớn.
Với những hành động tối dã man, tên ác quỷ đó thường hay xẻo tai, lột da mặt từ
trán cho tới miệng, đánh nhừ tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những đại
diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay (...) Ai nếu đều tin chắc rằng Bắc
Vương ra Bắc Kỳ là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi.
Những người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức. Họ phaỉ trả một số tiền chuộc
ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội. Còn nếu
không có tiền chuộc, họ sẽ bị xử tử (...) Phẫn nộ trước các hành động khinh thị
ý ngài, Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Ngược
lại họ cứng đầu mãi, thì họ sẽ bị giết (…) Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng
ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị cướp phá hoàn toàn. Dân
làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn này lại rơi vào tay của quân
Tây Sơn “ bạo tàn”, chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường.”
Ký tên. Thomas Thiện, linh mục người Bắc Kỳ.
Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Đăng Phương Nghi,Tập
san sử địa, số 9-10, Sàigòn, 1968, từ trang 196-198.
Có hai tài liệu do Ngô Bắc dịch mới đây chứng minh rằng Tây Sơn đã dùng hải tặc
Trung Hoa trong việc Bắc tiến. Đám Hải tặc Trung Hoa đã gây nhiều kiếp nạn
trong vùng mà chúng đi qua hoặc trú đóng đúng như nội dung bản phúc trình của
Thomas Thiện vừa được trích dẫn ở trên. Tài liệu do Dian H. Murray viết với tựa
đề: Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát triển của Hải
tặc Trung Hoa. Để viết tài liệu này, Murray cũng đã dẫn chứng hàng chục tài liệu
liên quan của các sử gia Tầu như Shun-tehsien-chih, Kuang-tung t’ung-chih, Chu
Huai,8 chuan, 1827, v.v…
Điều đó cho thấy binh đội Tây Sơn đi đến đâu dân chúng lầm than khổ sở vì bị cướp
bóc, bắt lính và tàn sát dân chúng đến đó.
Nào ai đã viết lại về các sự việc này?
Riêng đối với dòng họ Nguyễn Ánh thì kể như không một người nào sống sót dưới
bàn tay của Tây Sơn, trừ lại còn mình Nguyễn Ánh. Theo Trần Gia Phụng ghi lại
thì:
- Thứ nhất chú, bác ruột Nguyễnh Ánh bị giết là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần,
Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương.
- Thứ nhì anh em ruột của Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn giết là Nguyễn Phúc
Đông(anh ruột) và Nguyễn Phúc Mân, Nguyễn Phúc Thiên (em ruột).
- Thứ ba quan trọng hơn cả, Tây Sơn đã cho quật mộ Nguyễn Phúc Côn( thân phụ cả
Gia Long) đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790.
Về việc này, xin đọc kỹ chính sử nhà Nguyễn đã viết lại như sau:
“Tháng 9, ngày Ất Hợi, sửa lại sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau
lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu rất tốt, định dem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm
đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ
chạy. Huệ ghét không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều
nói các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấ. Huệ bực tức, sai đồ
đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quẳng xuống vưc…(...) Đến nay Huyên đem việc
tâu lên Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục
trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại.(..) Ngày kỷ Hợi,
vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả“
Trích ĐNTL, trang 466.
Chẳng những thế, Tây Sơn Nguyễn Huệ còn đào hết lăng tẩm 8 đời của chúa Nguyễn
tại Thừa Thiên, ném xuống sông. Nhưng điều mà Nguyễn Ánh không thể tha thứ được
là phần mộ của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh của Nguyễn Ánh cũng bị khai quật và
hài cốt bị ném xuống sông.
Theo tài liệu ghi lại không lấy gì làm chắc chắn trong Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả
cho biết chi tiết như sau:
“Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức đức Hưng tổ ném xuống
sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm
trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế.
Khi vua Gia Long lên ngôi đi tìm lại hài cốt của thân phụ nghe người làng tường
thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết
ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những gọt huyết này (lối thử này cho biết
mối liên hệ cốt nhục giữa hai người)”.
Trích “Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả”, trang 193, nxb Thuận Hoa,, Huế 1995. Trích lại
trong bài viết của cụ Võ Hương An “Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả.”
Dưới cái nhìn thông tục, đời thường, cụ Võ Hương An cho rằng cuộc trả thù của
Nguyễn Ánh chỉ là một cuộc vay trả. Đời có vay thì có trả. Nói khác đi sự trả
thù có ý nghĩa chính đáng, chấp nhận được nếu đặt trong bối cảnh một xã hội
theo thứ “Văn Hóa nuôi thù” vốn tồn tại nơi người Việt Nam.
Trả thù đôi khi trở thành một thúc bách luân lý và bổn phận.
Kết luận
Nay về phía Hà Nội, vào năm 2008 đã có một hội thảo “đánh giá lại Chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn” từ đó có một chuyển hướng trong cách nhìn và đánh giá lại
sử đời nhà Nguyễn theo một cái nhìn công bình và khách quan hơn. Những đánh giá
sử học dựa trên yêu cầu chính trị xem ra không còn thỏa đáng nữa.
Về số nhà viết sử tại miền Nam trước 1975 nay không còn lại mấy người, nhưng
thiển nghĩ họ cũng cần xác định và đánh giá lại những bài viết của chính họ nhằm
trả lại cho Nguyễn Ánh một vị trí xứng đáng hơn trong lịch sử Việt Nam.
Đã đến lúc một số những nhà viết sử của miền Nam VNCH hiếm hoi còn sót lại phải
tự họ điều chỉnh lại tầm nhìn, tầm hiểu biết sử, đánh giá lại “những công trình
sử học của chính họ và của đồng nghiệp”.
Phải làm gấp đi. Thời giờ không còn bao nhiêu nữa cho họ.
Và nay còn một chút hy vọng, có một số người viết sử chuyên ngành, tham khảo
nhiều nguồn tài liệu từ nhiều nguồn - từ tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng
Anh.
Hy vọng họ như những con tàu phá băng, phải phá vỡ từ bên trong những kiến thức
đã đông cứng. Không thể cứ mãi sống trong những huyễn tượng sử không thật, tự dối
mình và dối người.
Công việc đó, Nguyễn Duy Chính đang âm thầm một mình, bỏ hết thì giờ và công sức
viết lại sử đời Tây Sơn.
NGUYỄN VĂN LỤC
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=7871http://lathuy.vn102.space/?page=1&paged=45
Bài viết của blog tiếng viêt
có tên Bâng Khuâng
Có đường link :
http://lathuy.vn102.space/?page=1&paged=45
MINH HUYỀN
Trả lờiXóa02:23 8 thg 12 2009
MINH HUYỀN
11:20 8 thg 12 2009
Trai Hà Nội
Trả lờiXóa02:27 9 thg 12 2009
Tặng Biển rộng hát cho vui
Khoát Hải
Xóa03:38 9 thg 12 2009
Cám ơn traihanoi nhé ...list nhạc của bạn nhiều bài hát mình thích lắm ... Chúc bác luôn vui khỏe và Hạnh phúc nhé ... Thế nào bao giờ đi công tác hả ? thôi tham gia thêm cho vui chứ cần gì lương với bổng phải không ? ...nhưng bù lại được đi khắp đất nước thì còn gì bằng .... Nếu đi miền Tây Nam bộ...nơi mình có nhiều bạn và nhiều kỷ niệm 1 thời không thể nào quên đó ... bác có thể gặp chuyện trò với họ ...cho biết 1 thời ... nhé